CHỈ DUY NHẤT THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TOÀN NĂNG


Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


1. Có Đức Chúa GIÊSU KITÔ Là Có Tất Cả

Chả có gì sắp xếp trước để tôi có cuộc gặp gỡ với Satan cả! Tôi từng biết hắn hiện hữu và hắn rất mạnh. Tôi đã tin như lời Giáo Hội dạy. Chỉ đơn sơ thế thôi. Không sợ hãi cũng không bị ám ảnh. Vào thời kỳ ấy chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ chiếm trọn tâm tư tôi và vẫn còn tiếp tục chiếm trọn cho đến hôm nay và mãi mãi. Và hồng ân này tôi có được trước tiên là nhờ THIÊN CHÚA, tiếp đến là nhờ thân mẫu tôi, người mẹ tỏa sáng một Đức Tin vừa đơn sơ vừa vững chắc, đủ sức đẩy lui mọi hiểm họa của thứ đạo lý khắc khổ hoặc của niềm tin ngây ngô khờ khạo. Tôi không bao giờ quên những buổi cầu nguyện tràn đầy tin tưởng với trọn yêu thương tôi đọc với thân mẫu trước khi thiếp ngủ hoặc đọc chung với toàn thể gia đình.

Và rồi một ngày, chính Đức Chúa GIÊSU đến gặp tôi. Năm ấy tôi lên 5 hoặc 6 tuổi gì đó. Tôi ngồi bệt dưới đất và lật từng trang cuốn Truyện Kinh Thánh bằng tranh của bà chị. Tình cờ đôi mắt tôi dừng lại nơi bức họa trắng đen mô tả Cuộc Khổ Nạn: Đức Chúa GIÊSU bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá, có Đức Mẹ và Thánh Gioan, có hai tên trộm cướp .. Bỗng chốc, thật bất ngờ, tôi bật khóc nức nở và chạy thẳng xuống nhà bếp, vừa nép mình trong chiếc áo của mẹ vừa hỏi:
- Mẹ à, làm sao mà Đức Chúa GIÊSU yêu thương chúng ta dường ấy, nhưng lại có rất ít người yêu mến đáp lại Đức Chúa GIÊSU?

Câu trả lời của mẹ không quan trọng, bởi lẽ tôi đã quên nó từ lâu lắm rồi. Nhưng điều chính yếu đã được nói, hay đúng hơn, đã được thực hiện: đó là, một cách huyền nhiệm, chính Đức Chúa GIÊSU đến gõ cửa lòng tôi và gõ cửa cuộc đời tôi, điều mà người ta gọi là Ơn Gọi! Câu trả lời được đáp lại từ từ trong thinh lặng của cuộc sống thường ngày và mãi đến rất lâu sau này tôi mới hiểu được điều đó nơi Chủng Viện. Tôi hiểu rằng: ngày hôm ấy, hạt giống Ơn Gọi được gieo vào thửa đất trinh trong tâm lòng thơ trẻ của tôi, hạt giống của một cuộc sống được chiếm hữu bởi Tình Yêu cao cả và độc nhất. Chính Tình Yêu này đã dẫn đưa tôi vào Chủng Viện ngõ hầu cuộc đời tôi được hiến dâng để làm cho mọi người biết rằng Đức Chúa GIÊSU KITÔ yêu thương mọi người biết là chừng nào.

Phải nói sao về tuổi trẻ của tôi đây? Thật ra chỉ toàn những chuyện bình thường thôi! Cuộc sống gia đình rất giản dị và đậm tình với đứa em gái, các trò chơi và các bài vở làm ở nhà, rồi đọc ngấu nghiến hàng giờ các cuốn truyện dành cho tuổi thơ và tuổi niên thiếu, các bạn học cùng lớp .. Và kinh tối mỗi ngày quỳ gối đọc nơi chân giường của tôi trước khi ngủ. Không có việc đạo đức đặc biệt (tham dự Thánh Lễ lúc 11 giờ Chúa Nhật với gia đình nơi một giáo xứ lớn trong thủ đô Paris). Nhưng hàng năm vào Ngày Thứ Năm Tuần Thánh có nghi thức thay đổi theo lượt ”bàn thờ tạm” qua các giáo xứ trong khu phố. Rồi kỷ niệm ghi khắc năm lên 5-6 tuổi về Thánh Lễ đầu tiên tôi làm chú bé giúp lễ, thể theo lời khấn hứa của hiền mẫu ngày tôi chào đời (tôi sống sót là do phép lạ mỗi ngày nhờ tình thương và sự chăm sóc của mẹ hiền). Đó là Thánh Lễ nơi nhà nguyện dâng kính thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU tại Cô Nhi Viện Auteuil. Vị chủ tế không ai khác là Cha Brottier (Cha Daniel Jules Alexis Brottier, C.S.Sp, 1876-1936) mà ngày nay đã được tôn phong chân phước (25-11-1984). Tôi nhớ mãi sự tiếp đón đầy tình phụ tử và bộ râu dài của Cha mang dáng dấp nhà thừa sai đã gây xúc động mạnh nơi một đứa trẻ như tôi! Kể từ ngày đó, niềm vui của tôi là được giúp lễ, những Thánh Lễ thường khiến tôi cảm thấy thoải mái hơn là những Thánh Lễ long trọng của các ngày lễ lớn .. Rồi đến chuyến viếng thăm ngắn ngủi của Dì Madeleine, nữ tử Bác Ái, trở về từ miền truyền giáo Madagascar. Nhưng nhất là, cuộc chờ đợi kéo dài đăng đẳng cho ngày rước lễ lần đầu, cho niềm ước muốn khao khát khôn nguôi được ”rước Đức Chúa GIÊSU”. Tôi phải kiên nhẫn chờ đợi mãi cho đến ngày long trọng Tuyên Xưng Đức Tin vào năm 11 tuổi. Lý do là vì hai anh chị tôi đã phải chờ đợi đến tuổi này - theo lời khuyên của một Linh Mục dòng Đa Minh không mấy hỗ trợ việc cho các trẻ còn nhỏ tuổi được rước lễ - nên thân mẫu tôi không muốn khiêu khích sự ghen tuông của hai anh chị lớn .. Tôi không nhớ gì nhiều về các buổi học giáo lý. Tôi chỉ nhớ tìm cách làm sao để mình bị dò bài cuối cùng, sau khi đã nghe các trẻ khác trả bài trước! Về buổi tĩnh tâm chuẩn bị rước lễ lần đầu tôi cũng không nhớ rõ bao nhiêu, ngoại trừ câu phương châm của thánh nữ Jeanne d'Arc (1412-1431) được Cha giảng cấm phòng nhắc lại: ”Ngài THIÊN CHÚA, ưu tiên phục vụ” (Messire DIEU, premier servi). Ngày hôm sau, tôi cảm thấy xúc động và thật trịnh trọng khi tuyên xưng:

- Con xin từ bỏ Satan, cùng các hào nhoáng của nó cũng như các hành vi của nó và con xin thề hứa mãi mãi gắn chặt vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Chính một thời gian ngắn sau ngày rước lễ lần đầu và cuộc Tuyên Xưng Đức Tin trọng thể này mà tôi bày tỏ cùng Cha Tuyên Úy niềm ước muốn trở thành Linh Mục, niềm ước muốn từ lâu vẫn nằm sâu trong tiềm thức, khi ẩn khi hiện, tùy theo hoàn cảnh mỗi nơi mỗi lúc ..
Rồi đến những năm kế tiếp nơi trường trung học và việc lui tới văn phòng Tuyên Úy, thời đất nước bị chiếm đóng trong đệ nhị thế chiến cùng những thử thách đau thương; niềm vui của những ngày nghỉ hè tung tăng tại Beaujolais nơi gia đình Chị Cả với 8 đứa con (lần lượt chào đời hoa trái của tình yêu hôn nhân đậm đà thắm thiết), hòa nhịp với niềm vui chạy nhảy thỏa chí giữa thiên nhiên hoặc làm việc bên những người trồng nho. Khi lên bậc trung học đệ nhị cấp tôi gia nhập phong trào Thanh-Sinh-Công (JEC). Đây cũng là thời kỳ đào sâu Đức Tin và thực thi những công tác tông đồ đầu đời với các bạn cùng lớp. Tôi khám phá tập sách nhỏ Suy Niệm Phúc Âm mỗi tối (tôi thường cẩn thận ghi chép một câu ngắn để nhớ nơi cuốn sổ tay). Tôi đều đặn trao đổi với Cha Tuyên Úy, tham dự các tuần tĩnh tâm và các trại hè dành cho người trẻ. Đó là thời kỳ êm ả trôi qua của tuổi dậy thì.

Nhưng một khi đã giật được mảnh bằng tú tài thì không tài nào thuyết phục được Song Thân để các ngài đổi ý. Cha Mẹ tôi quyết liệt tuyên bố:

- Con chỉ vào Chủng Viện khi nào con học hành xong xuôi và có công ăn việc làm hẳn hoi.

Tuân lệnh Song Thân tôi đành phải dành ra hai năm trọn để miệt mài trau dồi kiến thức nơi trường Cao Đẳng .. điều mà rất lâu sau này tôi mới thật lòng tri ân Cha Mẹ về quyết định khôn ngoan này. Nhưng chính trong bầu khí nặng tình gia đình mà tôi thủ đắc sự trưởng thành hữu ích, tiếp tục công tác tông đồ thời trung học, cùng lúc khám phá dịch vụ giới trẻ giữa môi trường bình dân. Dĩ nhiên cũng có những giao động của lứa tuổi dậy thì, nhưng lòng tôi thật bình lặng vì có Chúa ngự trị. Và THIÊN CHÚA canh chừng tôi. Các vấn đề siêu-hình thường xáo trộn hoặc lung lạc Đức Tin của người trẻ, nhưng Đức Tin của tôi thì không hề hấn gì! .. Tôi có thể nói như Đức Hồng Y John Henry Newman (1801-1890) rằng nếu tôi gặp trong Đức Tin của tôi nhiều thắc mắc và khó khăn thì không bao giờ tôi phải mất thời giờ chiến đấu chống lại các vấn nạn chân chính cả! (Đức Hồng Y Newmann là thần học gia được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tôn phong chân phước ngày 19-9-2010 tại Birmingham, Anh Quốc).

Ngay ngày nhập ngũ thi hành quân dịch, tôi đã được dán nhãn hiệu ”Chủng Sinh”, chỉ vì lời tôi tâm sự với vị chỉ huy. Và buổi tối đầu tiên, tôi đã gặp thử thách: sau một phút dằn co bên trong, tôi liền quỳ gối dưới chân giường để đọc kinh .. Dĩ nhiên hành động của tôi lôi kéo tức khắc sự nhạo báng của 40 tân binh .. Tối hôm sau, bầu khí chế diễu gia tăng gấp đôi để rồi lắng dịu và đi đến việc giữ chút thinh lặng tỏ dấu kính trọng buổi đọc kinh tối của tôi! Sau khoảng vài ngày thì có một tân binh bắt chước làm như tôi, rồi thêm một tân binh khác. Sau cùng chúng tôi có tất cả 4 người cùng quỳ gối nơi chân giường đọc kinh tối trước khi ngủ. Với 1 trong 4 bạn tân binh này - là chủng sinh và là con trai của một thợ hầm mỏ người Ba Lan - tôi lần hạt Mân Côi chung với anh vào buổi tối sau buổi tập dượt. Khi còi báo hiệu vang lên, chúng tôi tức khắc làm dấu Thánh Giá chấm dứt buổi đọc kinh, tôi bỗng nghe anh thì thầm: ”Và các Thánh Thiên Thần sẽ đọc tiếp phần còn lại!”. Ngạc nhiên, tôi nín thinh, nhưng mấy ngày sau tôi hỏi lý do thì anh giải thích: ”Bởi vì em gái tôi thường nói như thế!”. Anh trả lời với nụ cười rạng rỡ làm chiếu sáng khuôn mặt hồn nhiên tươi trẻ! Ôi, ”Bros” ơi! (tên chúng tôi thân thương gọi anh) phải chi anh biết tôi nhận không biết bao nhiêu ơn lành THIÊN CHÚA ban cho tôi qua trung gian của anh! .. Tôi cũng thật lòng tri ân Cha Silve, một Linh Mục trẻ và tỏa sáng thiên chức linh mục. Cha ân cần tiếp nhận tôi và nâng đỡ hỗ trợ tôi trong công tác tông đồ cạnh các tân binh!

Đầu thập niên năm mươi .. là Chủng Viện! Tôi tưởng như mình đang ở thiên đàng. Các bậc thầy đáng kính, khám phá việc suy gẫm lâu giờ, việc đọc sách thiêng liêng, nền triết học theo thánh Tommaso d'Aquino (1225-1274). Sau hai năm, tôi được gởi vào đại học Sorbonne. Thời gian đào sâu và rộng mở trí thức. Đức Tin của tôi được cấu tạo chung quanh mầu nhiệm Đức Chúa GIÊSU KITÔ chết và sống lại vì phần rỗi loài người. Lòng nhiệt thành truyền giáo được phát triển trong một Giáo Hội Công Giáo vững chắc về Đức Tin và hăng say làm chứng tá. Trái tim tôi rộng mở nhờ tiếp xúc với các sinh viên đến từ mọi châu lục, vùng miền khác nhau. Tôi đặc biệt chân thành tri ân Cha Charles về bài học khiêm tốn của vị Linh Mục mà một ngày Cha đã dạy tôi.

Sau đó tôi trở lại Chủng Viện cho chu kỳ 4 năm. Lần này tôi học tại Học Viện Công Giáo Paris với các bậc thầy là các Linh Mục nổi tiếng như Cha Henri Cazelles (1912-2009), Cha André Feuillet (1909-1998), Cha de Broglies, Cha Henry, Cha Louis Bouyer (1913-2004), Cha Jean Daniélou (1905-1974)! Chính lúc này đây tôi mới thực sự chạm trán với nền thần học đích thực và hiểu rõ sự cần thiết cũng như các đòi buộc của một nền thần học chân chính.

Sau cùng thì vào năm 1959 .. tôi được thụ phong Linh Mục! Niềm vui trọng đại của lễ phục sinh! Niềm vui sâu xa khi trang trọng cử hành các Thánh Lễ đầu tay. Tôi hân hoan làm vị tiền hô Gioan Tẩy Giả giơ tay chỉ vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ và nói: ”Người phải nổi bật lên còn tôi phải lu mờ đi” (Gioan 3,30). Một năm sau tôi được chỉ định làm giáo sư và Cha Linh Hướng trong Đại Chủng Viện. Niềm vui chen lẫn khó khăn đối với một Linh Mục trẻ tuổi bên cạnh các chủng sinh hờ hững với tầm quan trọng của việc trau dồi kiến thức nhưng nôn nóng mong mau đến ngày lăn xả vào công tác tông đồ .. Rồi một ngày trong tháng 6 tôi được gọi làm bí thư cho Đức Hồng Y Maurice Feltin (1883-1975) Tổng Giám Mục Paris.

Bốn năm trôi qua khi Đức Hồng Y đến tuổi về hưu, tôi trở lại làm Tuyên Úy cho các học sinh trung học, đúng vào thời điểm sôi động của biến cố 68! Sau đó, tôi được chuyển về làm việc mục vụ nơi đền thờ Thánh Tâm Montmartre (thuộc quận 18 của thủ đô Paris). Linh Mục quản đốc đền thánh có nhãn quan thiêng liêng được đào sâu trong việc chiêm ngắm các kho tàng châu báu đời sống nội tâm của Đức Chúa GIÊSU KITÔ (Thánh Tâm) và kết hiệp với các mầu nhiệm của Chúa xuyên qua việc Chầu Thánh Thể. Ngay tức khắc, tôi cảm thấy mình hiệp thông sâu xa với Nhóm Linh Mục làm việc dưới sự điều động vừa linh hoạt vừa nghiêm chỉnh của Vị Quản Đốc đền thánh. Phương châm cho đoàn Linh Mục chúng tôi là: ”Thần Học, Cầu Nguyện, Tông Đồ”. Riêng tôi đảm nhận nhóm các bà có nhiệm vụ luân phiên giữ các giờ chầu Thánh Thể. Tôi cũng phụ trách nhóm các bạn trẻ làm việc cho đền thánh. Trong vòng 11 năm tôi đã nhìn thấy nẩy sinh 40 ơn gọi nam và nữ.

Thế rồi, theo lời yêu cầu của Đức Ông quản đốc đền thờ Thánh Tâm, tôi ra đi khai phá để thử tìm hiểu về một Phong Trào vừa xuất hiện trong Giáo Hội Công Giáo với các Nhóm Cầu Nguyện gọi là ”Canh Tân Trong Thánh Linh” hoặc ”Canh Tân Đặc Sủng”. Ngoài niềm vui chia sẻ lời kinh chúc tụng ngợi khen và sự giản dị trong mối quan hệ huynh đệ tức khắc lôi cuốn nhập cuộc, tôi tìm thấy mối hiệp thông sâu xa và thành hình điều mà từ rất lâu nay tôi hằng tìm kiếm (nhất là qua giáo huấn của các Giáo Phụ hy lạp):sự biểu dương quyền năng của Chúa Thánh Linh. Tại đền thờ Thánh Tâm chúng tôi nói: ”Trái Tim Đức Chúa GIÊSU KITÔ .. nơi phát ra Chúa Thánh Linh”; thì giờ đây tại Cộng Đoàn Emmanuel (Cộng Đoàn của phong trào Canh Tân Đặc Sủng nơi tôi được tiếp nhận) người ta lại nói: ”Chúa Thánh Linh .. Đấng phát ra từ Trái Tim Đức Chúa GIÊSU KITÔ”. Và rồi tất cả cùng gặp nhau tại .. Paray-le-Monial!

Đọc đến đây có lẽ một số quí vị thắc mắc tại sao tôi phải dài dòng kể lể tiểu sử cuộc đời tôi??? Thưa, trước hết là để dâng lời cảm tạ THIÊN CHÚA Đấng Duy Nhất đã dẫn đưa mọi sự và từ rất lâu đã chuẩn bị tôi cho cuộc gặp gỡ đáng sợ với Satan. Tiếp đến là để minh định như tôi đã nói ngay khi vào đề: Chả có gì sắp xếp trước để tôi có cuộc gặp gỡ với Satan cả! Bởi lẽ, tôi vốn tính không lo âu quá đáng, không hề nghiêng về các hiện tượng dị thường, bệnh hoạn, cũng không mấy ngây-ngô khờ-khạo với các cảm xúc mang vẻ tri thức! Không! Tôi không dễ rơi vào các cạm bẫy của chấn-động, của giật-gân!!!

2. Cuộc Gặp Gỡ Với Satan

Tháng 7 năm 19... tại Paray-le-Monial. Vào buổi chiều mùa hè năm ấy, nơi khóa họp của phong trào Canh Tân Đặc Sủng do Cộng Đoàn Emmanuel tổ chức, tôi có thể chọn một trong nhiều nơi họp khác nhau. Chỉ thuần túy vì tò mò, tôi chọn nhóm được linh hoạt bởi cô Emmanuelle (sau này trở thành nữ tu Emmanuelle trong Cộng Đoàn Bát Phúc). Đó là buổi ”cầu nguyện giải thoát”. Đây là cái gì vậy cà??? Tôi hoàn toàn mù tịt nên với tâm trạng vừa kinh-ngạc vừa đa-nghi tôi đứng im lắng nghe chứng từ của cô thiếu nữ và cuộc đối thoại sau đó với những người tụ tập chung quanh cô. Từng là độc giả trung thành của tờ “Supplément” (nguyệt san chuyên về đạo đức học và thần học luân lý) cũng như nhiều sách báo khác, thường cố gắng trình bày mối liên hệ giữa đời sống tâm linh với các khoa học nhân văn, nên tôi không bao giờ có ý tưởng (vì nó có vẽ xa xưa của thời Trung Cổ) là quy gán cho nguồn gốc quỷ dữ những khó khăn tâm linh. Bởi vì, đối với tôi, những khó khăn tâm linh đúng ra chỉ nằm trên bình diện tâm lý học hay cùng lắm là phân tâm học hoặc tâm bệnh học mà thôi (chứ không phải chuyện bị ma quỷ ám hại hay quấy phá!) ..

Sau đó - hơi mơ màng và dĩ nhiên không tin gì ráo trọi - tôi trở lại với công tác mục vụ nơi thủ đô Paris. Thế nhưng, những điều tôi nghe có lẽ đã đi vào chiều sâu tâm thức và tiếp tục hoạt động, khiến một ngày tôi phải đặt câu hỏi:

- Trường hợp của hai người tôi thường xuyên gặp gỡ để hướng dẫn thiêng liêng có các khó khăn mà tôi hầu như bất lực không giúp đỡ được, phải chăng các khó khăn này có mối ”liên hệ” bí hiểm nào đó với ma quỷ???
Tôi đem câu chuyện nói với cô Emmanuelle và cô đề nghị tôi cho cô gặp hai người này. Và đó là buổi ”cầu nguyện giải thoát” đầu tiên của tôi. Sau một hồi lâu tìm hiểu phân định, chúng tôi bắt đầu cầu nguyện .. Tôi lắng nghe cô Emmanuelle cầu nguyện chúc tụng rồi cô lớn tiếng mạnh mẽ ra lệnh cho các thần dữ rút lui, trong khi tôi cũng cố gắng cầu nguyện trong thinh lặng với trọn Đức Tin tôi có (nghĩa là có rất ít!). Bỗng chốc, cô Emmanuelle ngưng lại và nói với tôi:
- Bây giờ đến phiên Cha Georges, xin Cha tiếp tục!
Bị bất ngờ bắt buộc, tôi đành lao mình vào vòng Đức Tin!!!

Không có hiện tượng gì khác thường xảy ra, nhưng lần lượt người này rồi đến người kia - hai người do tôi ”hướng dẫn thiêng liêng” - được từ từ giải thoát và được chữa lành nội tâm. THIÊN CHÚA đích thân can thiệp mọi sự theo một thể thức khác, ngoài mức dự đoán của tôi, một vị Linh Hướng nhưng lại tưởng mình là tâm lý gia, muốn giải thích mọi chuyện trên bình diện tâm lý!!!

Vài tháng sau, tôi trở lại Paray-le-Monial. Lần này thì cô Emmanuelle chỉ định tôi như là nhân vật người ta có thể xin dẫn đầu buổi ”cầu nguyện giải thoát”. Nhờ đó tôi học hỏi nhiều điều khi cầu nguyện bên cạnh những người có những kinh nghiệm mà tôi không có. Tôi trông thấy họ sống những đặc sủng rất cần thiết cho một hoàn cảnh tương tự: cảm thông, phân định, tin tưởng, sức mạnh .. Ban đầu tôi chỉ tham dự bằng việc cầu nguyện trong thinh lặng, nhưng rất nhanh sau đó, tôi hiểu mình đã nhận được và phải thực thi ngay một đặc sủng chuyên biệt hầu giúp đỡ người đang gặp khó khăn để người này hiểu những gì đã xảy ra trong cuộc đời mình hầu có thể sống trong an bình và niềm tin vào chính giây phút cầu nguyện tha thiết ấy .. Nhưng tôi không bao giờ quên cái ngày mà tôi tham dự cách bất lực vào một buổi ”cầu nguyện giải thoát”. Tôi hoảng sợ vì nghi ngờ và cố gắng chống cự với những tư tưởng bán tín bán nghi. Tôi tự nhủ: ”Đây toàn là những người bị ảo tưởng .. Cái cô thiếu nữ này có lẽ nên đi gặp một nhà phân tâm học thật giỏi thì tốt hơn .. Ngay chiều nay mình sẽ lên xe lửa trở lại Paris!” .. Còn đang lẩm nhẩm suy tính như thế thì bất thình lình - hai người dẫn đầu buổi cầu nguyện giải thoát với trọn niềm tin và uy quyền - bỗng ngã lăn đùng nằm bất động dưới đất trước tràng cười như điên tỏ lộ vẽ thách thức và nhạo báng của cô thiếu nữ đang được cầu nguyện để được giải thoát. Ngay tức khắc, mọi nghi ngờ trong tôi biến mất, và được linh động bởi một ”Đức Tin không lưỡng lự”, tôi đích thân nhập cuộc, điều khiển buổi cầu nguyện mãi cho đến hồi kết thúc (khi cô gái được giải thoát!).

Một tháng sau, tôi có mặt tại Thánh Địa với một nhóm trẻ nơi đồi Jéricho, ngọn đồi Cám Dỗ. Chúng tôi cầu nguyện trong nguyện đường nhỏ của các Cha dòng Phanxicô dưới chân núi và tôi đọc cho tín hữu hành hương nghe đoạn Phúc Âm kể lại chuyện Đức Chúa GIÊSU KITÔ bị ma quỷ cám dỗ. Bỗng chốc có tiếng la hét trong sân tu viện. Tôi vội vã bước ra xem thì thấy một thiếu nữ của nhóm hành hương láng giềng đang nằm lăn lộn dưới đất mà thoạt đầu tôi nghĩ là cô lên cơn loạn thần kinh. Tôi đưa cô tách ra một nơi rồi cùng với mấy người bạn của cô tìm cách làm cô dịu lại nhưng không thành công. Chúng tôi liền bắt đầu cầu nguyện nhỏ tiếng cho cô. Tiếng la hét gia tăng gấp đôi và biến thành những lời lộng-ngôn ghê tởm khủng khiếp. Chính lúc ấy tôi bỗng nhớ lại những gì tôi đã trải qua ở Paray-le-Monial, tôi nhận được trong cầu nguyện Đức Tin cần thiết để dám làm cuộc ”cầu nguyện giải thoát”. Cơn điên loạn lịm tắt hầu như tức khắc và trong cầu nguyện, niềm an bình từ từ hồi phục, một niềm an bình mới mẻ. Đây là niềm an bình mà chỉ duy nhất THIÊN CHÚA mới có thể ban. Niềm an bình được thiết lập nơi cô thiếu nữ khiến cô cảm thấy như đứa con thơ bé nhỏ dưới cái nhìn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ! Kể từ giây phút ấy, cô không hề bị lên cơn và có thể tiếp tục cuộc hành trình với toàn nhóm tín hữu hành hương. Một chặng đường thiêng liêng bắt đầu mở rộng trong cuộc đời cô. Dần dần tôi trông thấy cô tiến bước trong sự hiểu biết và trong Tình Yêu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Trở về Paris, tôi tiếp tục các công tác mục vụ tông đồ như trước .. nhưng với một cái nhìn hoàn toàn đổi khác. Trong bối cảnh ngồi tòa ban bí tích giải tội cũng như trong việc hướng dẫn thiêng liêng, đôi khi tôi như cảm thấy một chút khó chịu bên trong khi hồi tưởng những gì đã sống vài tuần trước đây. Từ từ tôi nhớ lại tất cả giáo huấn của các bậc thầy tu đức của Giáo Hội Công GIáo liên quan đến cuộc chiến thiêng liêng và những quy tắc dành cho việc phân định tâm linh .. Tôi lăn mình vào - trước tiên trong lời cầu thinh lặng rồi đến kinh nguyện lớn tiếng bằng lời - tôi van xin THIÊN CHÚA giải thoát nạn nhân khỏi những mối liên hệ ràng buộc bí hiểm khiến họ bị tê liệt trong việc cầu nguyện .. hoặc khỏi những động lực thúc đẩy họ phải buông lời xúc phạm lộng ngôn. Rất nhiều lần tôi chứng kiến niềm an bình và tự do nội tâm được vãn hồi, đôi khi gần như tức khắc, nơi một người nam hoặc một người nữ, trước đó đầy bấn-loạn âu-lo đến xin tôi trợ giúp thiêng liêng. Thế rồi từ từ qua những đi-đi về-về giữa các kinh nghiệm mới mẻ này, suy tư về truyền thống Giáo Hội liên quan đến các vấn đề này và việc đào sâu các ánh sáng mà khoa học nhân văn có thể mang lại, tôi thấy việc phân định của tôi được khẳng định. Tôi cũng chia sẻ các khám phá này với vài Linh Mục của phong trào Canh Tân Trong Thánh Linh từng đi qua một chặng đường giống như tôi.
Trong thời gian này có một phụ nữ đến xin tôi giúp vượt qua các khó khăn bà gặp khi muốn cắt đứt với quá khứ và tiến bước với Đức Chúa GIÊSU KITÔ trên hành trình mới. Bị cha mẹ nghiện ngập bỏ rơi ngay từ nhỏ và được một người đàn bà cao niên có lòng tốt nâng đỡ trong thời niên thiếu nhưng sau đó bà phải lang thang vất vưởng trên các vĩa hè đường phố thủ đô Paris. Bị cuộc đời ngược đãi, bà đã dò dẫm tìm đến với ma-thuật. Sau cùng bà gặp một nhóm bạn bè tốt và họ đã đưa bà đi hành hương Thánh Địa. Từ đó bà chập-chờn lênh-đênh giữa tỉnh và mê, giữa tuyệt vời và khốn khổ, tùy theo trạng thái tâm linh. Có lúc bà bị hỗn loạn tâm thần. Có khi bà lại nồng nhiệt ao ước bước theo Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Nhưng rất thường khi bà bị xúi giục buông lời oán hận lộng-ngôn hoặc nhạo báng chế diễu đúng như một tên quỷ sứ! Cứ mỗi lần như thế tôi cảm thấy bất lực và vô phương cứu giúp bà! Mãi cho đến một ngày, tôi khẩn khoản khiêm tốn van nài Đức Chúa GIÊSU KITÔ cứu giúp và tôi đã nhận được sức mạnh của Đức Tin, đủ để thêm một lần nữa, dám truyền lệnh ”nhân danh Đức Chúa GIÊSU KITÔ” cho thần dữ đang cầm buộc bà trong nanh vuốt của những ràng buộc, mưu kế và xúi giục của hắn. Một lúc lâu sau đó tôi bỗng có ý nghĩ dùng đến Nước Thánh. Đang giữa mùa đông giá buốt và bà mặc chiếc áo khoác ngoài bằng len thật dày, vậy mà khi tôi vừa bắt đầu thì thầm đọc ”Kính Mừng MARIA”, bà liền tẩu thoát nơi tận cuối góc phòng và co-rúm trong thái độ hoảng sợ kinh hoàng, mặt úp vào tường và bịt kín hai lỗ tai. Tôi tức tốc mở ngăn kéo lấy cây rảy Nước Thánh nhỏ và rảy lên bà vài giọt Nước Thánh nhẹ thật nhẹ. Bà không thể nào trông thấy cử chỉ của tôi cũng không thể nào cảm được mấy giọt Nước Thánh thật mịn chạm vào lưng chiếc áo khoác ngoài bằng len của bà! Vậy mà, bà tức khắc rú lên những tiếng rống kinh hoàng, khiến người nghe không thể nào quên ngay được. Ngày hôm ấy, tôi đã phải chiến đấu ròng rã thật lâu trong kinh nguyện với ”tên quỷ” nhất định không muốn tháo lui. Bà càng rống to hơn ngay khi tôi đặt lên người bà Cây Thánh Giá .. Sau cùng, cuộc giải thoát thành tựu và bà có thể ra về nhẹ nhõm, bình an trong niềm vui của đời sống cầu nguyện được tìm thấy trở lại.

Sau biến cố trên đây tôi quyết định làm một bước đi mới. Tôi xin gặp vị Linh Mục trừ quỷ của Tổng Giáo Phận Paris. Ngài là cựu thừa sai tại Sri Lanka, nơi ngài từng gặp rắc-rối với Satan. Ngài lắng nghe tôi kể lại tất cả các biến cố đã trải qua và trường hợp của ”người phụ nữ bị quỷ ám”. Sau cùng ngài đề nghị tôi đưa bà đến gặp ngài. Sau một hồi lâu nói chuyện với bà, ngài đi đến kết luận giống như tôi nên đưa bà vào nhà nguyện để cử hành nghi thức trừ quỷ. Ngay khi Cha xướng kinh cầu nguyện, bà đứng cứng đơ rồi vùng vẫy, buông lời lộng ngôn phạm thương với những câu nói thóa mạ vô cùng ghê tởm. Bà càng rống to hơn khi Cha tìm cách đặt lên người bà Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tôi phải tận dụng mọi sức lực mới có thể giữ bà đứng yên. Sau cùng thì bà dịu lại và ra về trong niềm hạnh phúc và bình an .. mãi cho đến ngày bà trở lại gặp tôi với dáng điệu vừa khổ sở van xin vừa tỏ vẻ thù oán thách thức mà giờ đây tôi bắt đầu biết quá rõ .. Tôi liền liên lạc và xin hẹn với vị Linh Mục trừ quỷ. Đúng là cuộc chiến đấu đầy cam-go và dai-dẳng kéo dài trong mấy năm trời cho đến khi đạt được cuộc giải thoát chung kết, cho phép bà có một cuộc sống vừa nhân bản vừa thiêng liêng bình thường.

Trong khoảng thời gian này, từ khắp nơi người ta xin tôi trợ giúp những người gặp khốn-khổ vì các loại sự dữ tương tự như trên. Với một số người, tôi thường gởi đi chữa trị với những phương thuốc mà tôi nghĩ là thích hợp, đồng thời vẫn tháp tùng bằng những trợ giúp thiêng liêng mà mọi tín hữu Công Giáo đều có quyền mong đợi nơi một thừa-tác-viên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Với một số khác, tôi thường chữa trị bằng một hay nhiều buổi ”cầu nguyện giải thoát”, đôi khi thêm một buổi ”trừ quỷ ngắn của Đức Lêô XIII” thể theo lời khuyên của vị Linh Mục trừ quỷ. Với một số người khác nặng hơn thì tôi đưa họ đến cho vị Linh Mục trừ quỷ, cho đến một ngày, ngài bảo chính tôi phải làm các buổi trừ quỷ, rồi sau đó kể lại cho ngài nghe. Tôi đã thi hành đúng như ngài chỉ dẫn. Nhưng rồi đứng trước việc gia tăng quá nhiều trường hợp cần trợ giúp, tôi đích thân đến trình bày với vị Tổng Đại Diện rồi với vị Giám Mục bản quyền. Các biến cố này kéo dài trong vòng nhiều năm trời và trong thời gian này tôi được mời tham dự buổi họp hàng năm của các vị Linh Mục trừ quỷ của giáo phận. Sau cùng, Đức Giám Mục thông báo cho tôi biết ngài đã chỉ định một Linh Mục trừ quỷ khác thay thế cho vị Linh Mục tôi từng quen biết.
Như vậy, đến đây chấm dứt thừa-tác-vụ chính thức của tôi với tư cách Linh Mục trừ quỷ. Chấm dứt thừa-tác-vụ nhưng không chấm dứt những suy tư của tôi về các vấn đề đau thương liên quan đến sự dữ, đến sự hiện hữu của Satan của ma quỷ và những quấy phá ám hại của chúng.

... Trên đây là chứng từ của Cha Georges Morand p.s.s, trích từ cuốn sách do Cha viết: ”Sors de cet homme, SATAN! - Hãy ra khỏi người này, Satan!” nơi chương thứ I: ”Satan existe, je l'ai rencontré - Satan hiện hữu, tôi đã gặp hắn” từ trang 13 đến trang 29. Sách do nhà xuất bản Fayard phát hành vào tháng Hai năm 1994. Cha Georges Morand chào đời ngày 23-1-1930 tại thủ đô Paris (quận V) và qua đời ngày 28-1-2014 tại Toulouse, miền Nam nước Pháp. Cha được thụ phong Linh Mục ngày 28-3-1959, Đêm Vọng Lễ Phục Sinh, cho Tổng Giáo Phận Paris nhưng sau đó Cha gia nhập Hội Xuân Bích.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt